Nghĩ chuyện trên đời kì lạ thật. Chuyện tình duyên, sống chết, số phận
của con người lại được định đoạt tù một câu chuyện đùa về một cái bóng.
Ngày xưa, thân mẫu của Trịnh Trang Công trong Ðông Chu liệt quốc đã gây
ra bao chuyện phiền phức dẫn đến cảnh đầu rơi máu chảy chỉ vì bà ghét
Trịnh Trang Công khi xưa sinh ngược khiến bà phải đau đớn. Chuyện đời
vẫn thế, đó là chỗ éo le phức tạp trong đời sống tâm hồn con người. Chỗ
kì bút của Nguyễn Dữ là đã bắt nắm được một tình huống éo le như vậy.
Trong văn chương nước ta cũng như thế giới không hiếm những câu chuyện
xen những yếu tố truyền kì. Nét riêng của Chuyện người con gái Nam Xương
là hai yếu tố thực và truyền kì không đan xen vào nhau mà kết cấu thành
hai phần. Phần truyền kì vùa làm cho câu chuyện thêm lung linh hư ảo,
vùa góp phần làm rõ những yếu tố ở phần thực. Phần thực là cơ sở để xây
dựng phần truyền kì (phần thực, tôi muốn nói thực của văn học). Bằng mối
liên hệ giữa hai phần, nhà văn làm nổi bật tính cách nhân vật và thể
hiện chủ đề của tác phẩm.
Người con gái Nam Xương Vũ Thị Thiết là nhân vật chính xuyên suốt
hai phần của tác phẩm. Nguyễn Dữ không chú trọng việc miêu tả hình thức,
chúng ta chỉ biết Vũ nương là người “có tư dung tốt đẹp”. Tính cách
nhân vật được thể hiện qua hai mối quan hệ cơ bản là quan hệ với chồng
và mẹ chồng. Mối quan hệ đó diễn ra ở những thời điểm khác nhau. Ở tùng
thời điểm ấy, nhân vật bộc lộ cá tính của mình. Mối quan hệ với Trương
Sinh diễn ra trên bốn thời điểm: khi chồng ở nhà, khi chia tay, khi xa
chồng và khi chồng trở về. Khi chung sống với nhau, biết Trương Sinh là
người có tính đa nghi, hay ghen nên “nàng giữ gìn khuôn phép” cho gia
đình hoà thuận. Khi tiễn chồng đi tòng quân, tính cách của Vũ nương được
thể hiện ở lời đưa tiễn. Nàng nói với chồng: “Lang quân đi chuyến này,
thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang
theo được hai chữ bình yên”. Nàng nghĩ đến những khó nhọc, gian nguy
của người chồng trước rồi mới nhận ra sự lẻ loi của mình. Tù cách nói
đến nội dung của những câu nói hiện lên một Vũ nương dịu dàng, thiết tha
với hạnh phúc, không hư danh, thương chồng và giàu lòng vị tha, một tâm
hồn có văn hoá. Trong những ngày xa chồng, nàng nuôi con thơ, chăm sóc
mẹ chồng như mẹ đẻ của mình. Ngòi bút Nguyễn Dữ tỏ ra già dặn, nhà văn
đã để cho chính người mẹ chồng ấy nhận xét về tấm lòng hiếu thảo của
nàng trước khi bà cụ qua đời: “Sau này trời giúp người lành ban cho phúc
trạch, giống giòng tươi tốt… xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con
đã chẳng nỡ phụ mẹ”. Trong con mắt của người mẹ chồng ấy, nàng là
“người lành”. Ðến khi người chồng đi chinh chiến trở về nghi oan cho
nàng, Vũ nương tỏ bày không được thì tự vẫn, chứ không sống “chịu tiếng
nhuốc nhơ”.
Khi thì cách xủ thế, khi thông qua lời nói, khi hành động, khi thái
độ hình ảnh Vũ nương hiện lên là một người trong trắng thuỷ chung, giàu
lòng vị tha, hiếu thảo nhưng cũng là một người phụ nữ khí khái, tự
trọng. Ðó là một tâm hồn đẹp, đẹp một cách có văn hoá. Dường như Nguyễn
Dữ đã tập trung những nét đẹp điển hình của người phụ nữ Việt Nam vào
hình tượng Vũ nương. Con người đẹp, thiết tha với hạnh phúc này phải
chết - Ðó chính là bi kịch về số phận con người. Vấn đề này biết bao nhà
văn xưa nay tùng trăn trở. Có lẽ đó cũng là bi kịch của muôn đời. Bởi
vậy, vấn đề mà Chuyện người con gái Nam Xương đặt ra là vấn đề có tính
khái, quát giàu ý nghĩa nhân văn. Phía sau tấn bi kịch của Vũ nương có
một cuộc sống chinh chiến, loạn li, gây cách biệt, nhưng căn bản là
người chồng mù quáng đa nghi, thiếu sáng suốt. Những kẻ như thế xưa nay
tùng gây ra bao nỗi oan trái, đổ vỡ trong đời. Ðó cũng là một thứ sản
phẩm hằng có trong xã hội con người. Cho nên vấn đề tưởng chùng rất
riêng ấy lại là vấn đề điển hình của cuộc sống. Tất nhiên trong tấn bi
kịch này có phần của Vũ nương. Nàng vùa là nạn nhân nhưng cũng là tác
nhân. Bởi chính nàng đã lấy cái bóng làm cái hình, lấy cái hư làm cái
thật. Âu đó cũng là một bài học sâu sắc của muôn đời vậy.
Phần truyền kì trong câu chuyện là chuyện Vũ nương không chết, trở
về sống trong Quy động của Nam Hải Long Vương… đó là cuộc sống đời đời.
Nhà văn đã tạo ra một cuộc gặp gỡ kì thú giữa Phan Lang - một người
dương thế - với Vũ Nương nơi động tiên. Cuộc gặp gỡ ấy đã làm sáng tỏ
thêm những phẩm chất của Vũ nương. Khi Phan Lang nhắc đến chuyện nhà của
tổ tiên thì Vũ nương “ứa nước mắt khóc”. Nàng quả thật là một con người
thiện căn, thiết tha gắn bó với quê hương đời sống mà không được sống.
Tính cách của nàng và bi kịch như được tô đậm khơi sâu một lần nữa.
Nhưng dụng ý của nhà văn đưa phần truyền kì vào câu chuyện không chỉ có
thế. Nguyễn Dữ muốn khẳng định một chân lí nghệ thuật: cái Ðẹp là bất
tủ. Vũ nương không sống được ở cõi đời thì sẽ sống vĩnh hằng ở cõi tiên,
vì nàng là cái Ðẹp.
Nói cho cùng, hiện thực của câu chuyện là hiện thực về tấm lòng của
nhà văn trước những vấn đề của cuộc sống. Nhà văn đã đi sâu khai thác
những vẻ đẹp và nỗi đau khổ xót xa phức tạp của tâm hồn con người, nhất
là người phụ nữ trong xã hội đương thời như Vũ nương. Cũng qua đó, nhà
văn khẳng định một chân lí nghệ thuật phảng phất như trong các truyện cổ
dân gian… Thánh Gióng về trời, An Dương Vương xuống biển… kì lạ mà cũng
rất thực.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét